Tuesday, February 28, 2023

TRƯƠNG HÁN SIÊU

Người làng Phúc Thành, huyện An Ninh, nay là làng Phúc Am, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, Bắc Việt.

Tính rất cương nghị, học lại uyên thâm; nguyên là môn khách chủa Hưng Đạo Vương . Đời Trần Anh Tôn (1293-1344), được bổ hàn lâm học sĩ; trải 4 đời vua, Anh Tôn, Minh Tôn, Hiến Tôn và Dụ Tôn, làm quan đến chức tham tri, chính sự, tạ thế năm Giáp Ngọ 1354.

Trương Hán Siêu là tác giả bài phú sông Bạch Đằng, bài ký tháp Linh Tế, lại cùng Nguyễn Trung Ngạn soạn sách "Hoàn triều đại điền".

Có tư tưởng, phóng khoáng, ông thường hay bài xích những sự lợi dụng đạo Phật, đạo Lão bày ra tệ tục dị đoan huyễn hoặc quần chúng .  Sau cáo quan về ẩn ở núi Dục Thúy .

Núi này ở cửa bắc tỉnh lỵ Ninh Bình, đứng ngày bờ sông coi hình như con chim trả đang tắm, nên Trương Hán Siêu mệnh danh cho là "Dục Thủy".

Dân gian quen gọi một tên nôm na nhưng hình dung hơn: núi Non Nước .

Ngày xưa có thành bằng gạch xây vòng quanh tỉnh, đến đoạn gặp núi làm thành, nên vua Thiệu Trị cho tên là Hộ Thành Sơn .

Dưới gầm núi về mắt sông, có hang, trên núi co đình, lại có khoảng đất trồng hoa kim cúc .

Trên đỉnh núi có tháp Linh Tế, trong tháp có bia khắc bài ký, sườn núi khắc bài thơ, hai bài cùng của Trương .  Bài thơ như sau:


Sơn sắc chính y y - Sắc núi xanh rờn rờn

Du nhân hồ bất quy - Người đi chơi sao chẳng về ?

Trung lưu quang tháp anh - Nước sông trong, sáng lên bóng cây tháp

Thượng giới khải nham phi - Từng trên núi có một của hang

Trần thế như kim thị - Việc đời như nay là phải

Phù sinh ngộ tạc phi - Thì kiếp phù sinh trước đây mình tỉnh ngộ ra là không phải

Ngũ hồ thiên địa khoát - Cảnh Ngũ hồ trời đất rộng (Phạm Lãi nước Việt, khi thôi làm quan ra chơi Ngũ Hồ)

Hảo phóng cựu ngư ky - Nên tìm cái bàn câu cá ngày trước ra mà ngồi


Bản dịch của Nhân Phủ:

Núi một màu xanh ngắt

Du tử về chăng đây ?

Giữa dòng soi bóng tháp

Trên cõi mở rèm mây

Trần thế như: nay phải

Phù sinh nhận: trước sai

Năm hồ trời đất rộng

Tìm bàn cũ câu chơi!


Từ khi Trương Hán Siêu mất đi, các vị đế vương cùng tao nhân mặc khách thường lên núi du ngoạn đề vịnh, thơ còn khắc lại rất nhiều .

Bài thơ của vua Thiệu Trị :

Tẫn vi xuyên cốc, mẫu khâu lăng - Trong vũ trụ, sông hang thuộc về giống cái; núi gò thuộc về giống đực (chữa ở sách Khổng Tử gia ngữ)

Cô tiếu lâm viên, hám luyện trừng -  Núi đứng một mình ở bên thành, dòm xuống dòng sông trong (thừa ý câu trên, núi về giống đực, sông về giống cái)

Nam quốc phiên ly, bằng hổ cứ - Phên giậu nước Nam, nhờ núi trông như thể hổ cứ

Bắc môn tỏa thược tráng long hưng - Núi là then khóa cửa bắc tỉnh thành, giúp vận long hưng cho nước nhà

Không giao vãng đại cung đề thưởng - Núi này từ xưa, vẫn để cho những người làm thơ để thưởng

Chuẩn nghĩ biên phương tráng thế tăng - Nay ta cho tên Hộ Thành để mạnh thân thế ngoài biên

Danh thắng phất sùng, tu địa lợi - Cảnh danh thắng này, chẳng những địa lợi mà thôi

Vĩnh ninh cương ngữ bảo minh trừng - Lại còn giữ yên bờ cõi, và là điềm tốt cho tương lai


Bản dịch của Nhân Phủ:

Khe hang gò đống hiểm muôn trùng

Núi vút từng mây, nước suốt trong

Phên giậu nước Nam nhờ thế cọp

Khoá then của Bắc dấy oai rồng

Những từ thủa trước nơi đề thưởng

Ai rõ ngoài biên thế vẫy vùng

Danh thắng đã đành, còn địa lợi

Vững vàng bờ cõi, rạng non sông!


Sau này, non sông gặp nạn, núi không còn là then khóa của quốc gia như lời Thiệu Trị nữa, Nguyễn Thượng Hiền, lúc đó làm đốc học Ninh Bình có họa lại bài thơ Trương Hán Siêu như sau:

Thanh tuyền bạch thạch lưỡng tương y - Suối nước trong và đá trắng ở núi, vẫn nương tựa nhau

Nhất đại du nhân, khứ bất quy - Người đi chơi đời xưa (tức Hán Siêu) mãi không về

Hoàng cúc chí kim hương tiễn lộ - Cụm cúc vàng đến nay, vẫn còn hương thơm, ở đường xe vua đi

Thanh sơn tự tích ẩn thiền phi - Núi xanh từ xưa vốn đã có chùa 

Sinh ca thành quách, nhân như mộng - Hát múa và thành quách đời xưa như giấc mộng

Tỏa thược quan hà sự dĩ phi - Núi này ngày trước là then khóa chốn quan hà, nhưng nay chuyện ấy không còn nữa (vì người Pháp đã chiếm thành)

Độn tẩu phương tung, hà xứ mịch? - Dấu chân cụ Trương nay tìm đâu thấy ?

Thương giang minh nguyệt, mãn hàn ki - Chỉ thấy bóng trăng trên sông soi vào bàn đá câu cá


Bản dịch Nhân Phủ:

Đá trắng, khe trong, cảnh vẫn bền

Khách du năm cũ khuất non tiên

Cúc vàng nay vẽ đường hương liễn

Núi biếc xưa phong cửa ẩn thiền

Thành quách người còn say giấc mộng

Quan hà khóa đã lỏng tay then

Dấu thơm dật sĩ tìm đâu thấy

Vằng vặc dòng sông, bóng rọi thuyền ...


Sunday, January 20, 2013

Nguyễn Bỉnh Khiêm


Giai thoại Trạng Trình

Nguyễn Quý Đại
 
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 bis 1585) sinh năm Tân hợi đời vua Lê Thánh Tông Hồng Ðức thứ 22 tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) Thân phụ của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của Thượng thư bộ hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông. Quê ông ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
Theo tài liệu để lại bà Nhữ Thị Thục là bậc nữ lưu tài hoa giỏi văn chương và tài học về lý số. Biết trước những gì có thể xảy ra và mộng lớn con cái nên danh phận. Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc trẻ học với Lương Ðắc Bằng từng là đại thần giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ, ông dâng những điều trần nhằm ổn định triều chính không được vua Lê thi hành, Lương Đắc Bằng cáo quan về quê sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh chăm chỉ trở thành học trò xuất sắc. Bởi vậy trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng trao cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là Thái Ất thần kinh, từ đó ông tinh thông về lý học và tướng số, nghiên cứu về lý số với thiên tài “thần thông” có khả năng siêu quần, quán chúng về thấu thị, thần giao cách cảm, Nguyễn Bỉnh Khiêm bỏ qua 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527), xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc). Tới năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc (1527-1592), ông quyết định đi thi và đậu ngay Trạng Nguyên. Năm ấy ông đã 45 tuổi. được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư rồi sau giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả Thị Lang Bộ Hình, Tả Thị Lang Bộ Lại, kiêm Đông Các Đại Học, làm quan được 8 năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần vua không nghe. Ông cáo quan năm 1542 về vườn, lập Bạch Vân Am và hiệu Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy học cạnh sông Hàn Giang còn có tên Tuyết Giang, các môn sinh tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”. môn sinh của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông)… thơ Trạng Trình với triết lý của Thái Ất là nguồn tri thức hữu thể, về đời sống nhân sinh với càng khôn trong vũ trụ. Thái Ất còn gọi là Lý Thiên, Lý Địa và Lý Nhân
Ngư ông bất ngộ Ðào Nguyên khách
Khởi thức hưng vong thế cổ kim
Nhàn trung hoa thảo túc Cung xuân
Tà dương độc lập đô vô sự
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…
Dù Nguyễn Bỉnh Khiên không còn làm quan, nhưng vua Mạc Phúc Hải phong cho ông tước Trình Nguyên Hầu vào năm Giáp thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, sau đó được thăng chức Thượng Thư Bộ Lại, tước hiệu Trình Quốc Công. Từ đó người đời gọi ông là Trạng Trình. Nhờ học phương pháp tính theo Thái Ất, tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Người Trung Hoa khen Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”. Tục truyền rằng Năm Bính ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất truyền ngôi lại cho con Mạc Phúc Nguyên mãi đến năm mậu thân (1548) vua Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử tên Duy Huyên lên ngôi tức Trung Tông được 8 năm thì mất không có con nối nghiệp. Trịnh Kiểm muốn làm vua nhưng còn sợ dư luận, nên sai người đến Hải Dương hỏi ý khiến Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. ông không chỉ bảo người giúp việc ngụ ý: “năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ, gữi chùa thờ Phật thì ăn oản.. “ Sau đó Trịnh Kiểm tìm con cháu họ Lê lên làm vua.
Dù Trạng Trình ở ẩn, vua Mạc cũng như các chúa Trịnh, chúa Nguyễn có việc hệ trọng vẫn cho người đến hỏi ý ông. Ông thường kín đáo khuyên Vua cố gắng tránh chiến tranh để nhân dân khỏi chết chóc. Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm không muốn tiếng tăm với đời lúc bấy giờ Trịnh Tuy, Mạc Ðăng Dung cũng cố ý muốn tranh quyền, đánh nhau mấy năm dài. Ông tính số Thái Ất, biết nhà Lê lại khôi phục được và làm bài thơ:
Non sông nào phải buổi bình thời
Thú đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổỉ
Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng lúc cắn người (2)
Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi
Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung (1483-1541) chiếm ngôi, con của vị tướng triều Lê là Nguyễn Hoàng Dụ trốn sang Lào, được vua Lào cho nương náu ở xứ Cẩm Châu, trấn Nam Phủ, tỉnh Thanh Hóa. Năm Quý Tỵ (1532) Nguyễn Kim lập con út vua Chiêu Tông lên làm vua, gọi là Trang Tông. Để mưu đồ đại sự, Nguyễn Kim (1467-1545) thu nạp kiện tướng ở tỉnh Thanh Hóa là Trịnh Kiểm, sau là rể của Nguyễn Kim. Năm Canh Tý (1540), Nguyễn Kim đem quân đánh chiếm Nghệ An và thu phục luôn cả Thanh Hóa. Nhưng bỗng dưng Nguyễn Kim chết vì ngộ độc (1545), mọi bình quyền về tay Trịnh Kiểm. Việt Nam lúc bấy giờ bị chia đôi: từ Sơn Nam trở ra thuộc nhà Mạc, gọi là Bắc Triều. Từ Thanh Hóa trở vào là khu vực của nhà Lê hay gọi là Nam Triều.
Nguyễn Kim mất, để lại hai người con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng (1525-1613) cả hai tuy còn ít tuổi nhưng đã bộc lộ tài năng xuất sắc hơn người. Trịnh Kiểm lo sợ cả hai sau này có thể tranh giành địa vị với mình, nên ngấm ngầm ngăn trở dù Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ, Trịnh Kiểm cũng buộc Nguyễn Uông phải chịu phép gia hình. Nguyễn Hoàng thấy anh bị hại, sợ đến lượt mình, liền cử người kín đáo lên hỏi Trạng Trình. Trạng không trả lời cụ thể, chỉ đứng ngắm đàn kiến bò trên hòn non bộ trước sân nhà và nói một câu:
Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân.
Nghĩa là từ núi đèo ngang ở Quảng Bình kia có thể yên thân được muôn đời. Từ câu nói đó, Nguyễn Hoàng nghiệm ra rằng trạng Trình bày cho kế đi vào phương Nam lập nghiệp. Từ năm 1558 Nguyễn Hoàng vội vàng đến nói riêng với chị là bà Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phiá Nam, năm Mậu ngọ (1558) đời vua Anh Tông Trịnh Kiểm tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa, phía Nam dãy Hoành Sơn. Nhờ thế mà lập nên cơ nghiệp của họ Nguyễn ở Đàng Trong, truyền nối lâu dài.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, có lòng nhân đức thu dụng hào kiệt giúp dân cho nên được lòng dân kính phục. Trấn giữ đất Thuận Hóa, mở đầu cho triều đình nhà Nguyễn từ từ khai phá cho đến vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày nay. Ngoài ra rất nhiều lời sấm được lưu truyền qua dân gian nhiều lời bàn diễn giải khác nhau như câu: ” Cẩu vĩ trư đầu, xuất thánh nhân ” ứng nghiệm vào việc vua Gia Long lên ngôi từ (1802-1819) thống nhất sơn hà vào năm Nhâm tuất ngày 02-05-1802. trải qua 13 triều đại. Hoàng đế cuối cùng Bảo Ðại trị vì từ 1929 và thoái vị năm 1945.
Nguyễn Bỉnh Khiêm002Tương truyền Trạng Trình nói trước nhà Mạc suy vong, ông đọc hai câu thơ: “Cao Bằng tàng tại- tam đại tồn cô” (nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được ba đời nữa) con cháu họ Mạc về đất Cao bằng tuy nhỏ nhưng được 3 đời là Mạc Kính Cung, Mạc Kinh Khoan và Mạc Kinh Vũ. Dòng dõi họ Mạc bị bắt, bị giết nhiều người đổi họ lưu lạc khắp nơi để mưu cầu sự sống.
Trạng Trình có 3 người vợ và 12 người con (7 trai 5 gái) các con trai đều có chức tước sau nầy. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Đinh dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585) hưởng thọ 94 tuổi. Theo sử sách Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có công lớn đối với triều đình nhà Mạc nên sau khi mất (1585) vua Mạc Mậu Hợp ứng cử Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng, phụ chính triều đình làm khâm sai cùng với văn võ bá quan về dự lễ tang. Tháng Giêng năm sau (1586), vua Mạc ban cho làng Trung Am 3.000 quan tiền để lập đền thờ ông và cấp 100 mẫu ruộng để lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng. Đền thờ được dựng trên nền Giảng học – Am Bạch Vân và tự tay nhà vua đề biển ngạch: “Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ” (Đền thờ Tể tướng Trạng nguyên Triều Mạc). Trải qua những biến cố lịch sử ngôi đền được trùng tu, xây dựng lại nhiều lần vào các năm: Vĩnh Hựu nguyên niên (Ất Mão 1735, đời vua Lê Ý Tông); Minh Mạng thập tứ (1833). Ngôi đền hiện nay được dựng lại vào năm Mậu Thìn (1928) đời vua Bảo Đại. Đến năm 1985, nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông, một lần nữa đền lại được trùng tu làm thêm nhà khách, hồ nước, cổng đền, tường bao, đường vào đền…
Trước khi qua đời, Trạng trình có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng: Bình sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã sơn kia. Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ khi nào có khách tới viếng mộ và nói rằng: “Thánh nhân mắt mù” thì phải lập tức mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy. Con cháu nghe lời, làm y như đã dặn. Nhưng chờ mãi đến năm mươi năm sau, mới có người khách đến nhìn mộ cụ một lúc rồi nói: Cái huyệt ở đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này. Vậy mà thánh nhân gì chớ, hoạ chăng là thánh nhân mắt mù. Người trong họ nghe được, chạy về báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách Tàu kia về nhà, xin để xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà phong thuỷ (Feng Shui) trứ danh ở phương Bắc. Ông ta sang là để đi tìm xem di tích của Trạng, bấy lâu ông ta đã nghe tiếng đồn. Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn lòng làm ngay, và tự đắc cho rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta bảo: Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được. Ông trưởng tộc bèn tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý Tàu ra đổi lại ngôi mộ. Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta làm lạ bảo đem rửa sạch xem những gì trên đó. Khi tấm bia được rửa sạch, mới thấy mấy câu thơ hiện ra, tạm dịch nghĩa:
Ngày nay mạch lộn xuống chân
Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu.
Biết gì những kẻ sinh sau?
Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ?
Đọc tới đâu vị khách Tàu phải khâm phục Trạng Trình mà ông ta nghe đồn là giỏi thật. Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân Ðảng lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930) lãnh đạo cuộc tổng khởi nghiã ngày 10.2.1930 đánh Tây ở các tỉnh: Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An. Thất bại bị Pháp điên cuồng ném bom tàn phá làng Bảo An để trả thù. Có lời đồn Trạng Trình đã tiên đoán:
Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc rung Nam rung tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am cây
Lâm giang nổi gió mù thao cát
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy
Một ngựa một yên ai sùng bái
Nhắn tin nhà vĩnh bảo cho hay „
Thoát nạn sập nhà
Trạng Trình giao cho con cháu một ống tre sơn son thếp vàng, bịt kín hai đầu, và dặn đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh Thống đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu được tình thế gia đình. Khi Trạng mất, hằng trăm năm sau, con cháu Trạng lâm vào cảnh đói nghèo, sa sút, nhưng tuyệt đối không được mở ống ra xem trước thời hạn. Trạng còn dặn kỹ trừ quan Tổng đốc ra, không ai được mở ống, vì thế ống vẫn giữ nguyên vẹn. Trải qua bảy đời, cái ống tre ấy mới được rước lên dinh quan Tổng đốc, đúng ngày giờ đã ghi trong gia phả. Đang nằm nghỉ, nghe tin con cháu cụ Trạng mang thư đến gặp, quan Tổng đốc rất ngạc nhiên, không biết vì cớ gì, nên truyền cho vào, đồng thời quan ngồi dậy để đi ra cửa.
Quan Tổng đốc vừa bước khỏi giường nằm được mấy bước thì bỗng rầm một cái, chiếc sà nhà không biết bị mọt ăn hỏng từ bao giờ, rơi ngay xuống chỗ giường vừa nằm. Thật là một phen hú vía! Nếu ông không kịp ngồi dậy nhận thư Trạng, thì mạng ông đã khó mà sinh tồn. Quan Tổng đốc mở ống tre ra xem, thấy bên trong có một cuộn giấy, đề hai câu thơ:
Ngã giải nhĩ thượng lương chi ách,
Nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần
Nghiã là
Cứu người thoát nạn đổ nhà,
Ngươi nên cứu cháu con ta khỏi nghèo
Chưa hết kinh hoàng vì chuyện chiếc sà nhà vừa rơi xuống, ông thoát nạn nhờ ra lấy lá thư. Quan Tổng đốc biết rằng Trạng Trình cứu ông thoát chết, nên ông ta ân cần mời cháu Trạng Trình về tư thất đãi hậu hỹ, sau đó đưa ra rất nhiều tiền giúp khỏi cảnh nghèo đói.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) phá đền
Năm Minh Mạng (1791-1840) năm thứ 14, Nguyễn Công Trứ được vua điều đi khẩn hoang ở vùng Hải Dương, Nguyễn Công Trứ thấy địa thế cần phải đào con sông, đào sông thì phải phá đền thờ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ra lệnh cho dân phu phá đền để khai phá công trường. Khi sai người đào mang bát hương ra, Nguyễn Công Trứ chợt thấy dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ lau sạch đọc được các câu đã ghi:
Minh Mạng thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền phải làm đền
Nào ai đụng đến doanh điền nhà bay
Nguyễn Công Trứ lập tức viết sớ về kinh, xin bãi bỏ lệnh phá đền. Ông còn cho người sửa sang lại đền Trạng Trình khang trang hơn. Từ đó ông không còn nghĩ đến việc phá đền để đào sông nữa.
Cha con thằng Khả
Tục truyền trong làng có cha con ông Khả đi bắt dế (chuột) kiếm sống. Khi đến bên mộ Trạng, hai cha con vướng víu thế nào lại làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất sùng kính Trạng Trình, nên khi thấy bia mộ bị đổ, họ nổi giận bắt cả hai cha con, kêu nộp phạt ba quan tiền mới tha, vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau:
Cha con thằng Khả.
Đánh ngã bia tao
Làng xóm xôn xao
Bắt đền quan tám
Cha con ông Khả chịu nộp phạt, nhưng dân làng phải tha cha con về nhà chạy tiền. chỉ tìm được có một quan tám, dân làng không chịu, cha con ông Khả ngẫm nghĩ phải nói với dân làng: Cha con tôi bị Trạng Trình bắt phạt có quan tám, “Tam quán” nói lái lại thành quan tám.
Thời gian và thế sự xoay vần
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
Rồng bay năm vẽ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng qủy mới nhăn răng.
Những điều tiên đoán trên, liên quan với hiện tình đất nước Việt Nam. Hy vọng năm 2013 Qúy Tỵ cầm tinh con rắn Việt Nam bước vào giai đoạn lịch sử mới mẻ hơn, người dân biết những gì xảy ra tại các nước khác, giới trẻ ra nước ngoài học và trở về. Tôi hy vọng toàn dân cùng đoàn kết hổ trợ và tiếp tay với những người yêu nước để canh tân đất nước đem lại tự do, dân chủ đưa đất nước đến phú cường và thịnh vượng. Đảng cộng sản Việt Nam hãy thức dậy! mở to đôi mắt nhìn xa hơn, bài học lớn nhất trong lịch sử, Thiên đường cộng sản Liên Sô (Soviet Union) sụp đổ kéo theo các nước trong các nước Đông Âu: Poland, Romania, Hungary, Bulgaria, Czechoslovakia (Slovakia/ Slovenia) bỏ chế độ cộng sản để có tự do, độc lập và nhân quyền được tôn trọng . Noi gương nước láng giềng Miến Điện cởi mở, trả tự do cho những tù nhân chính trị, chấm dứt chính sách đàn áp, kiểm duyệt truyền thông báo chí, cho bầu cử tự do… Những người cầm quyền đã quá giàu rồi nên thức tỉnh để hưởng phúc, đừng tham quyền cố vị, không có khả năng đưa đất nước phục hưng về kinh tế, chính trị giữ vững bờ cõi nên từ chức cho người tài giỏi hơn lãnh đạo. Những nhà độc tài giàu sang hàng trăm tỷ USD như Saddam Hussein, (Iraq) Gadhafi, (Lybia) N. Ceausescu (Romania) người đời nguyền rủa và bị giết kéo xác trên đường phố như một con chó, con cháu họ cũng bị giết hay bị tù tội, gia đình ly tán tài sản bị tịch thu.
Thơ văn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Kiêm còn lại hơn 100 bài trong bộ Bạch Vân Thi Tập, được dịch ra chữ quốc ngữ, thơ mang nặng tình người, khuyên người đời biết điều nhân nghĩa, ngoài ra còn một số giai thoại truyền tụng trong nhân gian…và những lời sấm ký có giá trị. Đời sống của tiên sinh thật xứng đáng với câu đối ở đền thờ tại Bạch Vân Am: “Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng – Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu” (Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng. Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu). Nhà thờ ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, có bức hoành phi đại tự ở chính giữa có 4 chữ “An Nam lý học” từ câu “An Nam lý học hữu trình tuyền” có nghĩa là am hiểu về lý học ở nước An Nam có Trình tuyền hầu (tước vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm), Đặc biệt có một số câu đối nói rõ chính kiến của ông về thế sự và hậu thế ca ngợi công đức của ông.
Nguyễn Quý Đại
1/ ứng nghiệm về sau nhà Lê khôi phục
2/ ứng nghiệm nhà Trịnh giữ nhà Lê
Tài liệu tham khảo
Việt Nam Sử lược: Trần Trọng Kim
Tự Ðiển nhân vật lịch sử: Nguyễn Quyết Thắng
Những câu chuyện lịch sử tập 3: Trần Gia Phụng
Thái Ất Thần Kinh nhà xuất bàn văn Hóa
Trang Wikipedia. hình trên Internet
 
Source Internet.

Lê Thánh Tông & Ngọc Hằng


Mến cảnh lại càng thêm mến cả...
Hoàng tử Hiệu (tên thời trẻ của vua Lê Thánh Tông) một lần dạo chơi trên sông đào vùng Tống Sơn, Thanh Hóa tình cờ gặp một cô gái đang vo gạo bên bến nước. Cảnh đẹp người đẹp khiến hoàng tử tần ngần. Vốn hay chữ, hoàng tử buột miệng đọc:
"Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả..."
Câu văn bỏ lửng, nhưng đồ rằng ai cũng hiểu. Cô gái vẫn lặng yên vo gạo. Khi mang gạo về quá bến, mới quay lại đáp:
"Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho..."
Câu văn cũng bỏ lửng, nhưng tất nhiên hoàng tử không thể không hiểu, càng bội phần cảm mến bởi lời hay ý đẹp.
Cô gái đó là Ngọc Hằng, con gái một vị quốc công, mẹ bị tình phụ nên phiêu dạt đến xứ Thanh. Sau này Lê Thánh Tông lên ngôi và Ngọc Hằng trở thành người vợ hiền của nhà vua

Source Internet.

Nguyễn Hòe

Rửa chân trong ao
 
Nguyễn Hòe trọ học ngoài tỉnh, một lần dạo phố thấy một cô gái đẹp liền lẽo đẽo theo sau đến tận cổng. Cô gái vào nhà rồi, Hòe lân la hỏi xung quanh mới biết đó là nhà của một vị quan về hưu. Hòe hôm sau đến gõ cửa nhà nọ, nói là học trò dọc đường khát quá, nên mạo vào xin nước.
 
Chủ nhà vốn xuất thân nho học, nên rất yêu mến học trò, liền dẫn Hòe vào mời cùng uống trà. Thấy Hòe đối đáp nho nhã, ông rất thích. Nhân hai người ngồi đối diện với bức tranh sơn thủy treo trên vách, ông bèn đọc một câu đối, ý cũng muốn thử tài:
 
"Quải thư bích thượng, tận thu tứ hải sơn hà"
(Treo tranh trên vách, thu hết non sông bốn bể)
Hòe nghĩ mãi không đối được, bí quá vờ đánh đổ trà lên chân, rồi xin phép ra rửa chân, tính bài từ đó... chuồn ra cổng. Ra đến ao, khua chân xuống nước, bóng nước lay động làm hình ảnh rung rinh, lóng lánh, Hòe chợt nảy ý hay, bèn quay lại đối:
"Tẩy túc trì trung, dao động cửu thiên tinh đẩu."
(Rửa chân trong ao, lay động trăng sao chín trời.)
Chủ nhà nghe xong khen lắm. Đó là mở đầu cho một kết thúc tốt đẹp mà có lẽ không phải kể thêm.
 
Source Internet. 

Lê Hiến Phủ



Lòng ta không phải là đá
 
Khoảng cuối đời Trần, có bảng nhãn Lê Hiến Phủ người làng Chính An, huyện Ðông Triều, tỉnh Hải Dương, làm quan tới chức Đại học sĩ, là người rất trung trực không sợ cường quyền.
Tương truyền khi Quý Ly đang chuyên quyền, thường ngày đến làm việc ở nhà chính sự đường vẫn ngồi trên một chiếc ghế đen, Lê Hiến Phủ thấy vậy liền cự rằng:

- Nay ông dám ngồi ghế đen, rồi nữa, ngai vàng ông cũng ngồi à?

- Xin ông hãy đổi cái bụng dạ ấy đi!- Quý Ly gật gù đáp.

Hiến Phủ không hề sợ, cứng cỏi trả lời rằng:

- Bụng dạ trời sinh, sao có thể đổi được!

Ðoạn ngâm mấy câu thơ:
Ngã tâm phỉ tịch
Bất khả quyển dã
Ngã lâm phỉ thạch
Bất khả chuyển dã

(Lòng ta chẳng phải chiếc chiếu
Không thể cuốn tròn được
Lòng ta chẳng phải hòn đá
Không thể chuyển vần được)
Quý Ly nghe nói giận lắm, nhưng vẫn lẳng lặng không nói gì cả.
Sau đó, Hiến Phủ tâu với Vua, Vua CÀNG TIN DÙNG HƠN VÀ PHONG CHO CHỨC HIẾN GIÁN ĐẠI PHU. ÍT lâu sau, Hiến Phủ cùng với Vua tìm cách trừ Quý Ly, sai một người môn khách giấu mũi nhọn trong tay áo để ám sát, song việc không thành, ông bị Quý Ly đem giết.
Trước khi hành hình, ông vẫn ung dung đọc bài thơ cảm khái, có câu rằng:
Thốn nhẫn trừ tàn thiên địa bạch
Thất tâm báo quốc quỷ thần tri
(Tấc nhọn trừ gian trời đất rõ
Tấm lòng đền nước quỷ thần hay)
Nhà Vua nghe biết rất thương xót ông, ban cho cỗ áo quan gỗ vông và truyền chôn cất chu đáo.


Source Internet.

Sunday, February 13, 2011

Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương (chữ Hán: 胡春香) là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam.


Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
  • Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.'
  • Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An (*). Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.[1]
  • Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
  • Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
  • Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo, vậy tại sao lại có chuyện "cổ nguyệt đình"?. Bà không dùng chữ nho cũng đâu thể cho rằng bà ít chịu ảnh hưởng của nho giáo, mà phải xem lại xã hội thời đó, bà là một nhà thơ nên cũng là một minh chứng cho xã hội thời đó về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.
  • Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
  • Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh – tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).
Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
.

   Đề Đền Sầm Nghi Đống
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đến thái thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!

Đề tranh Tố nữ

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡ cô mình ?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh,
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vô tình.

 Xiều mai : ám chỉ người con gái đã lỡ thì

Đồng tiền hoẻn

Cũng lò cũng bễ cũng cùng than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng ắt cũng đáng nên quan.

    Động Hương Tích

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hòm.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom.


     Đá ông chồng bà chồng

Khéo khéo bày trò tạo hoá công,
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng.
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
Thớt dưới sương pha đượm má hồng.
Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt,
Khối tình cọ mãi với non sông.
Đá kia còn biết xuân già giặn,
Chả trách người ta lúc trẻ trung.

          Đánh đu
 
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân có biết xuân chăng tá.
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

           Đánh cờ

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Ðét đồn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Ðể đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Ðem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu,
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.

         Đèo Ba Dội

Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫ muốn trèo.

Đèo Ba Dội hay Ba đèo tên chữ là đèo Tam Điệp, thuộc huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Không phải Đèo Ngang như có sách đã nhầm

Bánh trôi nước 
   
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
          Cảnh thu

Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ,
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

      Chợ trời

Khen thay con Tạo khéo trêu ngươi.
Bày đặt ra nên cảnh chợ trời!
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi, buôn danh nào những kẻ,
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.
        Chùa Quán Sứ
 
Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình, tiểu để xuông không đấm,
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo.
Sáng banh không kẻ khua tang mít,
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu.
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo!
   Chùa xưa
Thày tớ thung dung dạo cảnh chùa,
Thơ thì lưng túi, rượu lưng hồ.
Cá khe lắng kệ, mang nghi ngóp,
Chim núi nghe kinh, cổ gật gù.
Then cửa từ bi chen chật cánh,
Nén hương tế độ cắm đầy lô.
Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí,
Phúc đức như ông được mấy bồ ?
     Chơi đền Khán Xuân
   
Êm ái chiều xuân tới Khán đài,
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai!
Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng,
Một vững tang thương nước lộn trời.
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá,
Cực lạc là đây chín rõ mười.

Bà Huyện Thanh Quan

Tên thật là : Nguyễn Thị Hinh
Nữ thi sĩ, thường được gọi theo chức vụ của chồng là Bà Huyện Thanh Quan, không rõ năm sinh, năm mất.
Người ta chỉ biết bà là ái nữ của một vị danh Nho, sinh quán tại làng Nghi Tàm, huyện Thọ Xương (nay là Hoàn Long, tỉnh Hà Đông).  Bà lập gia đình với ông Lưu Nghị, tự là Lưu Nguyên Uẩn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ cử nhân khoa Tân Tỵ, năm Minh Mạng thứ hai, được bổ làm tri huyện Thanh Quan. Do đó nữ sĩ được gọi là Bà huyện Thanh Quan hay Bà Thanh Quan.


Chồng bà mất sớm, năm ông 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con.
Đời vua Minh Mạng bà được mời vào làm Cung Trung giáo tập, dạy các cung phi và công chúa.
Thơ bà điêu luyện, hàm súc, hiện còn một ít bài được truyền tụng và được xem là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam. Với các bài Đèo Ngang, Thăng Long thành hoài cổ, Chiều hôm nhớ nhà.

   Do là nữ nhân nên các tác phẩm của bà hiện nay chỉ còn 7 tác phẩm . Đa số bị thất truyền . Vua Tự Đức cũng rất thích những tác phẩm của bà .

       Đền Trấn Vũ

Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thương, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười.


         Cảnh chiều hôm   
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn ?


        Cảnh thu
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.



        Chùa Trấn Bắc  
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Ai đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy toà sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu


      Chiều hôm nhớ nhà
Vàng toả non Tây bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
Còi mục gác trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ chung tình có thấy là ?


    Qua đèo Ngang
  
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá ,đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.

 
        Thăng Long Hoài cổ
  
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Cao Bá Quát

Cao Bá Quát


(Kỷ Tỵ 1809-Giáp Dần 1854)

Danh sĩ đời Tự Đức, tư Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Hiên, quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc, tức tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội).

Ông là em sinh đôi với Cao Bá Đạt, nổi tiếng văn chương đương thời. Tổ xa đời là Cao Bá Hiền làn đến Thượng thư bộ Binh đời hậu Lê, cha là Cao Cửu Chiếu, cũng là bậc tài danh đương thời.

Năm Tân Mão 1831, ông 22 tuổi, đậu á nguyên trường thi Hà Nội. Nhưng thi Hội 2 phen đều bị đánh hỏng, ông không buồn thi cử nữa, ngao du non nước.

Năm Tân Sửu 1841, quan đầu tỉnh Bắc Ninh đề cử ông với triều đình, ông được triệu vào kinh sung chức Hanh tẩu bộ Lễ. ít lâu, được cử chấm thi ở trường hương Thừa Thiên, ông và bạn đồng sự là Phan Nhạ chữa một ít quyển văn hay mà phạm húy, toan cứu vớt người tài. Việc bị phát giác. Giám sát trường thi là Hồ Trọng Tuấn đàn hặc, ông bị kết vào tội chết. Nhưng Thiệu Trị giảm tội cho ông, chỉ cách chức và phát phối vào Đà Nẵng.

Gặp khi có sứ bộ Đào Trí Phú sang Tân Gia Ba công cán, ông được tha cho rời khỏi phối sở, theo sứ đi lập công chuộc tội. Xong việc trở về, ông được phục chức cũ, rồi thăng làm chủ sự.

Năm Giáp Dần 1854, ông phải đổi lên Sơn Tây, làm Giáo thọ ở phủ Quốc Oai. ông buồn chán, phẫn chí bỏ quan theo làm quân sư cho Lê Duy Cự chống lại triều đình. Việc khởi nghĩa ở Mĩ Lương thất bại, ông bị bắt và bị hành quyết cùng với 2 con là Cao Bá Phùng và Cao Bá Phong năm ông 45 tuổi. Anh ông là Bá Đạt cũng bị liên lụy. (Về cái chết của ông, sách Đại Nam thực lực chính biên chép rằng: viên suất đội Đinh Thế Quang bắn ông chết trong trận đánh nhau. Nhưng nhiều sách khác thì chép như trên).

Ông còn để lại đời bộ sách Chu thần chi tập. Thơ văm ông dù bằng chữ Hán hoặc quốc âm đều hay.

Những bài ca trù của ông cũng xuất sắc. Đặc biệt bài phú Tài tử đa cùng, chỉ riêng một bài này thôi cũng đủ nêu cao tên tuổi ông với văn học nước nhà.

Khi ông mất mới 45 tuổi, bạn ông là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có bài thơ truy điệu ông rất thâm trầm:

"Duy biên thư sử, bích thiên cầm,
Nhất mộng du du, nhất hảo âm.
Sơn hải di tang hà sứ ẩn
Hương quan li hận thử hồi thâm!
Văn chương hữu mạng tương chung thủy
Thanh khí đồng bi tự cổ câm (kim)
Ngô đạo vị kham phân hiển hối, âu y kì nãi sĩ lưu tâm

Bản dịch:

Đàn còn bên vách, sách bên màn
Một giấc nghìn thu bặt tiếng vang.
Điên đảo non sông nhòa lối cũ,
âm thầm đất nước ngấm bi thương.
Duyên văn đã kết đây cùng đó,
Nghĩa cũ dù ai nhớ chẳng buồn!
Đạo học tỏ mờ chưa dễ biết
Cửa người khép nép mãi sao đương.

Tác phẩm của ông sau này được sưu tầm và khắc in là Cao Chu Thần thi văn tập.

***

Thơ Việt Cổ Điển : Thi Hào Cao Bá Quát
Riêng tặng B.S. J. Nguyễn Hiếu Liêm

Mục đích bài biên soạn ngắn nầy là để nhắc lại văn tài đặc sắc của một thi sĩ cổ điển Việt Nam trong một bối cảnh lịch sử xô-bồ của nuớc Việt lúc giao thời. Nếu trong những công trình khảo cứu văn chuơng Anh Pháp có những sự tìm tòi nghiên cứu về văn thơ cổ điển La tinh và Hy lạp, trong khuôn khổ nghiên cứu văn học Việt nam sự tái khám phá những tác phẩm giá trị thi ca Hán-Việt của những thế kỷ truớc cũng hào hứng và có thể bổ ích cho những công trình sáng tạo mới của nền thi ca Việt nam hiện đại.
Trong kho tàng thơ văn Việt nam cổ điển, ngoài thi hào nổi tiếng Nguyễn Du với tác phẩm bất hủ thơ Nôm Thúy Kiều, chúng ta còn có thi hào Cao Bá Quát với những bài Ca Trù và thơ Hán-Việt đặc sắc của ông.
Cao Bá Quát, hiệu là Chu Thần, sinh năm 1809, mất năm 1854; quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (Bắc Việt).
Ông đậu Cử nhân và đuợc bổ làm Giáo Thọ ở Phủ Quốc Oai. Vì bất mãn với chế độ thời bấy giờ nên ông theo giúp Lê Duy Cự nổi loạn chống lại Triều Đình năm 1854. Mưu sự thất bại ông bị bắt và xữ tử.
Trong lãnh vực văn chuơng cổ điển Việt Nam ông đuợc xem là một thiên tài. Vua Tự Đức đã khen tặng ông rằng: “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán…”. Dân gian ưa thích thơ văn của ông đến độ tôn sùng ông là “Thánh Quát.”
Phát xuất từ một cảm quan sâu sắc và một hồn thơ tinh tế, thơ của ông rất hàm súc với một lối nhìn và diễn tả độc đáo, khác với đa số thơ văn biền ngẫu đầy điển tích đuợc ưa chuộng thời bấy giờ. Vì truớc đây đã có rất nhiều sách vở và tài liệu văn học trình bày về thi ca Nôm của Cao Bá Quát rồi, nên trong bài nầy tôi chỉ xin giới thiệu một số thơ Hán-Việt của ông mà thôi.
Đọc thơ Nôm hay Hán-Việt của Cao Bá Quát nguời ta phải công nhận nét hành văn tả chân đặc biệt của ông vì nó nói lên đuợc những rung động tinh tế của một tâm hồn đa cảm và chung tình; những nỗi niềm riêng tư, thầm kín, chân thành – một đặc điểm chỉ thịnh hành trong thi ca Việt hiện đại với phong trào thơ mới.  Một điểm khác là trong những bài thơ Hán-Việt của ông là tuy xử dụng chữ Hán – loại văn tự hầu như chính thức trong văn chuơng bác học Việt nam so với chữ Nôm phổ thông trong thi ca dân gian vào thời đó – nhưng ông lại sính dùng điệp ngữ Hán-Việt, chẳng hạn như : trùng-trùng, hạo-hạo, dạ-dạ, phi-phi, du-du, thu-thu, phiếm-phiếm, âm-âm, tức-tức, lạc-lạc, … Sự lựa chọn từ ngữ độc đáo nầy làm cho lời thơ ông có một nhịp điệu và âm huởng đặc biệt gần gũi với tiếng Việt ròng, do đó thơ Hán-Việt của ông có một sắc thái nhịp nhàng, dồi dào nhạc tính, truyền đạt đuợc nhiều ấn tuợng thi vị đặc sắc, có lúc nhẹ nhàng, bóng bẫy, có lúc sắc bén, thâm trầm, thấm đuợm đặc tính thi ca Việt thuờng chỉ có thể tìm thấy trong văn thơ Nôm thuần túy mà thôi.
Trong khuôn khổ ngắn ngủi của bài giới thiệu nầy – và cũng để tránh sự nhàm chán cho các độc giả ít quen thuộc với thơ cổ điển Hán-Việt của thế kỹ truớc - trong số hơn trăm bài thơ Hán-Việt của thi sĩ họ Cao đã để lại tôi chỉ chọn và phỏng dịch 12 bài sau đây mà tôi cho rằng có thể tiêu biểu cho những cảm xúc riêng tư của tác giả, nỗi nhớ quê huơng và gia đình thân yêu khi tha huơng đối bóng, nỗi buồn thấm thía, chán chuờng của sự thất bại trong sự nghiệp, nỗi đau xót ngậm ngùi lúc trở về làng cũ, những tình cảm sâu đậm giữa bạn bè tri kỹ, cũng như những cảm giác mới mẻ lúc công du hải ngoại. Với nỗi buồn bàng bạc đây đó qua thơ của ông chúng ta cũng không khỏi thấm thía buồn lây với nỗi thất vọng ngỡ ngàng, chua chát về cuộc sống “phù danh” của buổi giao thời mà ông đã chứng kiến trong cuộc đời bất-đắc-chí của ông và chính ông đã gói ghém nó trong 2 câu hát nói đắng cay:
         Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy
         Cảnh phù du trông thấy cũng nực cuời…
Trong những bài dịch từ Hán văn ra Việt văn dịch giả Lý Lãng Nhân cố gắng diễn dịch bằng thể thơ lục-bát 6/8 – một thể thơ thuần túy Việt nam, để nhại lại tiếng ru êm đềm của thi ca Việt chảy trong huyết quãn nguời Việt, như một âm vang thân thiết tiềm ẫn mãi trong tâm hồn kẻ ly huơng. Tuy nhiên vì sự dị biệt giữa hai ngôn ngữ Hán Việt nếu có một vài chỗ phải dịch thoát ý, hay phải rút ngắn tựa bài thơ cho dễ nhớ, thì đó là truờng hợp bất khả kháng, ngoài ý muốn của dịch giả.
Madison, AL., tháng 01, năm 2004

Nhật Tảo Quá Hương Giang
Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền
Trường giang như kiếm lập thanh thiên
Sổ hàng ngư đĩnh liên thanh trạo
Lưỡng cá sa cầm khuất túc miên
Trần lộ du du song quyện nhãn
Viễn tình hạo hạo nhất qui tiên
Kiều đầu xa mã phi ngô sự
Phả ái nam phong giác chẩm biền.



Sáng Qua Sông Hương
Núi xa lẫn trốn ruộng xanh
Sông dài như kiếm long lanh cuối trời
Thuyền chài vẳng tiếng hò lơi
Cò đôi co cẳng im hơi ngủ ngày
Mắt mòn hun hút đường dài
Tình quê roi vút cảm hoài xót xa
Đầu cầu xe ngựa phồn hoa
Gió nam tỉnh giấc hồn ta mộng gì.




Ðáo Gia
Song mấn tiêu tiêu bất tự tri
Hương thôn chỉ điểm thị qui kỳ
Mộc miên điếm lý sương thu tảo
Thiên mã hồ biên nhật thướng trì
Lân hữu hốt phùng kinh sác vấn
Mẫu thân sạ kiến hỉ giao bi
Bình sinh đa nạn kim trường hối
Úy hướng gia nhân ngữ biệt ly.


Về Mái Nhà Xưa
 Hoa râm mái tóc chẳng ngờ
Trở về làng cũ thẩn thờ bước chân
Đồn xưa cây cũ sương giăng
Hồ im nắng gội ngày xanh biếng về
Hỏi chào hàng xóm e dè
Mẹ già mừng tủi con về hôm ni
Cuộc đời hoạn nạn sầu bi
Nhắc chi hai chử biệt ly não nề.



Trệ Vũ Dạ
Tế vũ phi phi dạ bế môn
Cô đăng minh diệt tiểu vô ngôn
Thiên biên chinh khách khuê trung phụ
Hà xứ tương tư bất đoạn hồn.


Đêm Mưa Dầm
Mưa đêm lất phất cửa gài
Đèn chong một ngọn nỗi nầy nói chi
Người chinh phụ, kẻ biên thùy
Tương tư hồn đoạn khác gì hỡi ai.




Vọng Phu Thạch
Độc lập sơn đầu đệ nhất phong
Chu điêu phấn tạ vị thùy dung
Âm thư cửu đoạn nhân hà xứ
Thiên hải vô nhai lộ kỷ trùng
Huyết lệ yên hòa minh nguyệt thấp
Hương hoàn vân tích lục đài phong
Thiên hoang địa lão tình do tạc
Dạ dạ xao tàn bích đỗng chung.


Hòn Vọng Phu
Đầu non đá tạc hình hài
Son phai phấn nhạt vì ai ngóng chờ
Nguời đi xa xứ vắng thơ
Biển trời cách biệt mịt mờ nước non
Máu hòa lệ khói trăng tròn
Mây giăng tóc phũ rêu còn rũ xanh
Trời già đất cổi chung tình
Đêm đêm vẳng tiếng chuông rền động xa.




Thu Dạ Ðộc Tọa
Minh nguyệt nhập tiền hiên
Cô ảnh khuy thanh tôn
U nhân ái dạ tọa
Tương đối diệc vong ngôn
Khởi lập miện không vũ
Nhân chi thiệp nhàn viên
Tức tức hầu trùng ngữ
Thu thu giang điễu huyên
Minh cư đạm độc thích
U thưởng diệu tự luân
Bạc chước sấn lương dạ
Úy ngã cơ lưu hồn.


Đêm Thu Một Mình
Ánh trăng chênh chếch qua hiên
Đêm thanh một bóng nghiêng nghiêng ảnh sầu
Nguời buồn vốn thích đêm thâu
Ngồi im đối bóng lặng sâu không lời
Trời cao chẳng chút mưa rơi
Nguời nhàn tản bước dạo chơi cuối vườn
Nỉ non trùng dế gọi hờn
Bên sông chim hót giọng còn thiết tha
Đêm dài duy chỉ mình ta
Người quen cảnh vắng phôi pha nỗi buồn
Đêm thanh an ủi mộng hồn
Chén hoa xóa nỗi cô đơn ít nhiều.



Thành Vị Giã Ca
Cộng thán tương phùng vãn
Tương phùng thị khách trung
Quản huyền kim dạ nguyệt
Hương quốc kỷ thu phong
Lệ tận tôn nhưng lục
Tâm hôi chúc tự hồng
Cựu du phương lạc lạc
Nhất khúc mạc từ chung.


Người Ca Sĩ Thành Vị
Gặp nhau biết mấy thở than
Nhìn nhau đất khách can tràng đổi trao
Đêm trăng đàn sáo quyện nhau
Quê xưa cách mấy thu nào nhớ chăng
Lệ rơi thấm ướt áo xanh
Tim ai đau xót đuốc dành bóng đêm
Phương trời bạn cũ xa xăm
Khúc ca tiếc với tri âm làm gì.



Thăng Long Cựu Kinh Cảm Tác
Đệ nhất phồn hoa thử cựu kinh
Nùng sơn Nhị thủy tối cao thanh
Thiên niên thành quách không kim cổ
Thập lý nha phường lão tử sinh
Hàn thực hầu gia yên sắc đạm
Hương phong tửu điếm liễu hoa minh
Bất kham phiếm đĩnh Tây hồ nguyệt
Cố quốc tà dương địch sổ thanh.


Thăng Long Cảm Xúc
Phồn hoa đây chốn cựu thành
Núi Nùng, Sông Nhị lưu danh nhất đời
Ngàn năm thành quách chẳng dời
Mười phường phố đó bao đời tử sinh
Lầu trang Tiết lạnh khói yên
Hương bay quán rượu liễu xinh hoa cười
Hồ Tây thuyền dạo trăng soi
Quê xưa tiếng sáo chiều rơi bóng tà.



Giả Biệt Gia Nhân
Vong tình tự tiếu ngã hà năng
Ai lạc niên lai tiệm bất thăng
Nại biệt hữu giam tàng cựu kính
Công sầu vô ảnh bạn cô đăng
Chẩm biên hương mộng tam canh viễn
Cân lý sương mao nhất dạ tăng
Thủy niệm xuân hàn trung lộ khách
Ngưu y lang tạ lệ thành băng.


Từ Biệt Người Nhà
Vong tình luống thẹn cho mình
Buồn vui thôi đã lỗi tình với ai
Gương xưa còn cất giữ đây
Đèn khuya một ngọn sầu tây vô hình
Phương trời canh vắng một mình
Sương đêm dầy dặc nặng tình cố hương
Nhớ khi đất khách xuân tàn
Lệ rơi thấm áo ngự hàn giá băng.



Châu Trung Cảm Tác
Nhất bích ngưng vi giới
Trùng vân nhiễu tác thành
Viễn phong xung hải lập
Cao Lãng tiếp thiên bình
Hương quốc tam xuân ý
Kiền khôn vạn lý tình
Đã lâu tần bắc vọng
Độc kiến tảo yên hoành.


Trên Thuyền Cảm Tác
Trời xanh nước biếc một làn
Mây đùn giăng phủ như thành mới xây
Triều dâng sóng dựng vờn mây
Núi xa xa thẵm biển đầy nước cao
Ba xuân cách biệt quê nào
Đất trời muôn dặm tình sao hững hờ
Lầu thuyền xa ngóng thẩn thờ
Khói mây hướng Bắc mịt mờ sương mai.



Ký Hữu Phương Đình
Thập niên ác bút phí quang âm
Đồ bão tiên ưu hậu lạc tâm
Thân sự dữ vân tranh tụ tán
Thế cơ như thủy trục thăng trầm
Cố viên cúc tĩnh thu ưng trưởng
Tiểu các mai hàn dạ độc ngâm
Tự tiếu đa tình tiêu vi đắc
Phù danh hoàn khước ngộ tri âm.


Gửi Bạn Phương Đình
Mười năm cầm bút uổng công
Vui sau lo trước còn trông ngóng gì
Thân như mây tụ tán đi
Đời như con nước theo thì thấp cao
Vườn xưa cúc nở thu nào
Xuân nay gác vắng mai chào tiếng ngâm
Nực cười thói cũ đa tình
Phù danh thẹn gặp tri âm bấy chầy.



Tự Quân Chi Xuất Hĩ
Tự quân chi xuất hĩ
Dạ dạ thủ không sàng
Hãi nguyệt chiếu cô mộng
Giang phong sinh mộ lương
Tiểu kính ký viễn thiếp
Hàn y lưu cô phòng
Trì thủ các tự úy
Bất khiến luợng tương vong.


Từ Ngày Anh Ra Đi
Từ ngày anh bước chân đi
Ðêm đêm hiu quạnh giường kia lạnh lùng
Trăng soi mộng lẽ canh trường
Gió qua bến lạnh chiều sương gợi sầu
Gương soi anh nhớ hình nhau
Phòng xưa áo lạnh em nào lãng quên
Ấp yêu kỹ niệm êm đềm
Tháng năm đâu có nhạt tình nhớ thương.



Hạ Châu Hành Tức Sự
Lâu các trùng trùng giáp thủy tân
Tùng âm lương xứ dị hoa xuân
Thiết ly vô tõa qui xa nhập
Cá cá ô nhân ngữ bạch nhân.


Bài Thơ Hạ Châu
Ven bờ lầu phố chập chùng
Hoa xinh nở dưới bóng tùng rợp cao
Mở tung cổng sắt xe vào
Hầu nguời da trắng toàn nào da đen. 



 ****

Dạ quan thanh nhân diễn kịch trường

Liệt cự thôi minh tối thượng đàn
Nhất thanh hám khởi dạ phong hàn
Kích tu tráng sĩ phương hoành giáp
Nô mục tướng quân dĩ cứ an
Xuất thế khởi vô chân diện mục
Phùng trường lãng tiếu cổ y quan?
Hổ Môn (1) cận sự quân tri phủ
Thán tức hà nhân ủng tị khan!


Cao Bá Quát

Dịch Nghĩa
(1) Hổ Môn: Tác giả nói về trận quân đội Anh đánh thắng Mãn Thanh ở Hổ Môn trong cuộc chiến tranh nha phiến năm 1840.

Bài này phải được sáng tác sau năm 1840. Tác giả dùng hình ảnh một buổi diễn kịch để nói lên thực trạng xã hội lúc bấy giờ. Vua quan chỉ như những đào kép trên tuồng mà không biết thực trạng của đất nước ra sao!



Dịch Thơ
Đêm xem người Thanh diễn kịch

Trên sân khấu sáng choang đèn đuốc
Tiếng thét vang gió buốt đêm trường
Áo râu tráng sĩ cương trường
Tướng công chễm chệ bừng bừng mắt đao
Bộ mặt thực lẽ nào không có
Mà vui trò mũ áo xa xưa?
Hổ Môn nhục mới biết chưa?
Mà còn nghếch mũi say sưa xem tuồng!

Bản dịch: Tường Vũ Anh Thy


 Dương phụ hành


Tây dương thiếu phụ y như tuyết
Độc băng lang kiên tọa thanh nguyệt
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì
Dạ hàn vô ná hải phong xuy
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly

Cao Bá Quát

Dịch Nghĩa

Bài này Cao Bá Quát làm trong thời gian ông đi quân thứ chuộc tội ở Mã Lai và Singapore.

Dịch Thơ
Bài hành người đàn bà phương Tây

Áo thiếu phụ trắng phau như tuyết
Tựa vai chồng trăng biếc đêm say
Ánh đèn thuyền Việt lung lay
Liếc sang ríu rít nàng lay gọi chồng
Chén sữa ngọt tay hồng uể oải
Gió căm căm biển phải rùng mình
Nàng đòi chồng đỡ thân mình
Bỗng ta trơ trọi trong tình biệt ly.

Bản dịch: Tường Vũ Anh Thy


Tức sự

Nhãn khan cao điểu lộc phàn lung
Tự ỷ thằng sàng bất ngữ trung
Ngũ dạ tâm tình đăng đối ảnh
Nhất thu cảnh vật vũ giao phong
Mộng hồi thành khuyết hồn nghi khách
Lệ sái hành dương huyết bính không
Cách xá hà nhân ngâm giải tụng
Lũ tương văn tự vấn cơ ông

Cao Bá Quát

Dịch Nghĩa
Bài thơ này tương truyền Cao Bá Quát làm trong lúc đang ở tù vì tội sửa bài thí sinh.

Dịch Thơ
Tức sự

Cánh chim bay giữa trời nhốt gió
Võng một mình nhốt gió cùng ai?
Thâu đêm chiếc bóng miệt mài
Mưa thu hiu hắt cho dài nhớ thương
Mộng thành xưa ngỡ hồn vất vưởng
Gông với cùm lệ tưởng máu khô
Bạn tù chữ nghĩa vu vơ
Thường đem han hỏi cái thơ ông tù!

Bản dịch:Tường Vũ Anh Thy

Như chim bay giỏi nhốt chơ vơ,
Trên võng kề lưng, chẳng nói thưa.
Tâm sự canh chầy đèn với bóng,
Cảnh tình thu trọn gói trong mưa.
Mộng về thành khuyết hồn đâu tá?
Lệ rỏ gông cùm máu uổng chưa?
Ai đó cách nhà ngâm vịnh được,
Kẻ tù thường đến hỏi văn thơ.

Bản dịch: Hoàng Trung Thông


Vị minh tiểu kệ đồng Phan sinh dạ tọa

Tuyển hữu mạc thủ khí
Thủ khí mê kỳ nhân
Vị minh mạc thác hoa
Thác hoa ly kỳ chân
Hiểu tỉnh cấp thanh tuyền
Tế thán lý tân hỏa
Vô yên giữ trần khí
Hối thủ nhất tiếu khả
Nhứ hương quý thanh chân
Bất dụng ngoại thước ngã
Vô dĩ nhất ác khan
Phóng nhĩ tỵ quan giả
Huyễn phục phi tráng nhan
Phồn âm biến đại nhã
Thí lưu nhất chuyễn ngữ
Tự tại chứng hiện quả

Cao Bá Quát

Dịch Nghĩa
Bài thơ này Cao Bá Quát làm nhân một dịp uống trà với Phan Nhạ, người cùng ông chấm thi ở trường thi Thừa Thiên. Trong lần chấm thi này, ông lấy muội đèn sửa bài của một số thí sinh. Công việc bại lộ, ông bị truy tố tội tử hình, sau đổi thành trảm giam hậu.

Dịch Thơ
Bài kệ uống trà làm trong khi ngồi khuya với Phan Nhạ

Người ta không kể bề ngoài
Bề ngoài diêm dúa sơ sài bên trong
Tựa như trà ướp hoa ong
Vị trà đã mất hương lòng mất theo
Sáng ngày giếng nước trong veo
Bỏ than thật nhỏ lò treo giữa lò
Nước sôi không khói không tro
Hai bàn tay sạch thơm tho khề khà
Uống trà cốt ở vị trà
nhiều hoa lắm lá hương trà sao thanh
Đừng vì của hiếm hư danh
Mà đem cái mũi tranh dành thực hư
Áo quần không tạo phong tư
Rườm rà cách điệu làm ngưng cung đàn
Hãy nghe câu kệ lời vàng
Đang là đang có, có là đang đang

Bản dịch: Tường Vũ Anh Thy

Điếu nội nhị thủ

I

Phụ vong tài bát nguyệt
Mẫu bệnh dĩ kinh tuần
Huống tử khuê trung phụ
Phục vị tuyền hạ nhân
Tử sinh hồn di biệt
Tân cựu lệ nan phân
Tạo vật cố vi giả
Du du thử nhất thân

II

Lệ kết băng hàn lệ vị tàn
La y huống phục lệ lan can
Phương tương bạch thủ kỳ giai lão
Ninh quán thanh thiên cự tác quan
Hoa lạc dĩ vô đăng hạ chiếu
Nguyệt minh duy hữu mộng trung khan
Thương quân bất cảm cao thanh khốc
Chỉ khủng quân tâm bất tự an


Cao Bá Quát

Dịch Thơ
Khóc vợ I

Cha mất chửa đầy năm,
Mẹ đau trải cả tuần
Tới giờ về chín suối
Lại chính bạn chung chăn
Sống thác hồn chia dễ
Trước sau lệ khó phân
Trời xanh sắp đặt thế
Mờ mịt tủi cho thân


Khóc vợ II

Lệ đọng thành băng lệ chửa tan
Áo tơ lại đẫm lệ tuôn tràn
Mới vừa đầu bạc nguyền chung sống
Sao nỡ đầu xanh vội cách ngăn
Hoa rụng, ánh đèn nào chiếu sáng
Trăng soi hồn mộng mãi băn khoăn
Thương người không dám hờ to tiếng
Vì sợ lòng người chẳng được an.

Bản dịch: Đào Mộng Nam

Sunday, November 1, 2009

ĐOÀN TỬ QUANG

Sinh triều Gia Long, tại làng Phụng Công, tỉnhm Hà Tĩnh .

Văn hay chữ tốt, mà đi thi từ nhỏ đến 80 tuổi chỉ đỗ hai khoa tú tài .

Đến năm canh tí, Thành Thái 12 (1901) lại vào thi trường Nghệ, bấy giờ vừa 82 tuổi . Sau 4 kỳ, được 2 kỳ phê ưu, 2 kỳ thứ . Khi xướng danh, Phan Bội Châu đỗ thủ khoa, vì được 3 kỳ ưu, 1 kỳ thứ . Đoàn chỉ kém 1 kỳ ưu, đáng đỗ á nguyên . Song vì xét trong quyển, nơi cộng những chỗ tẩy xóa, phải có nêu 3 chữ Cộng Quyển Nội thì ông lại quên viết, thành ra phạm trường quy . Lẽ ra bị đánh hỏng tuột, nhưng may chủ khảo là tế tửu Khiếu Năng Tĩnh thấy ông râu tóc bạc phơ, lấy làm ái ngại, liền làm sớ thanh tự tâu vua xin lấy ông đỗ, nhưng cho đỗ cử nhân thứ 29 (khoa này 30 cử nhân).

Khi ban yến, theo lệ mỗi ông được lấy thêm phần mang về nhà, để gia đình cùng được hưởng ơn vua, quan trường thấy Đoàn cũng gói phần bèn hỏi đùa:

- Ông đem về chia cho các cháu ư ?

- Bẩm xin chia cho mẹ tôi trước đã, vì 2 năm nữa mẹ tôi vừa một trăm tuổi .

Chủ khảo nhân đó làm một bài Nhai sự ký để thuật lại việc này, trong bài có câu:

Niên phù Lương Hiệu
Bảng áp Tôn Sơn

- Tuổi ông bằng ông Lương Hiệu đời Tống, 82 tuổi mới đỗ trạng nguyên, ông đỗ gần cuối bảng cử nhân, đè được ông Tôn Sơn đời Đường đỗ đội bảng .

Khi về vinh quy, các quan tỉnh Nghệ tặng ông hai bài thơ:

Khả thị Hương sơn Đoàn tú tài
Niên hoa bát thập nhị hồi khai
Văn trường bạch chiến tu như kích
Đoạt đắc nhất chi đan quế lai

Đoạt đắc nhất chi đan quế lai
Thong dong huề trượng quá nam cai
Từ vi cửu thập bát tuế hĩ
Thủy kiến nhi lang đắc ý hồi

- Khá vậy thay tú tài họ Đoàn ở Hương sơn
- Niên hoa đã tám mươi hai lần nơ
- Bạch chiến ở trường thi, râu cứng như mác
(Bạch chiến là đánh nhau bằng bút, không phải binh khí)
- Cướp được một cành quế đỏ mang về
- Thong thả chống gậy đi qua cõi Nam cai
- Ớ nhà mẹ già đã 98 tuôi
- Mới thấy con đắc ý đưa tin mừng về

Bài dịch Nhân Phủ
Khá lắm! Hương son Đoàn tú tài!
Xuân xanh vừa đúng tám mươi hai
Trường văn múa bút râu như mác
Quế đỏ cành thơm cướp vác vai

Quế đỏ cành thơm cướp vác vai
Ung dung chống gập tới Nam cai
Nhà huyên tuổi hạc chín mươi tám
Giờ thấy con ta đắc ý rồi !

Thủ khoa Phan Bội Châu cũng mừng câu đối nói lên được ý nghĩa của mọi người về cái đỗ của Đoàn :

Sảo tá thiên công, quyệt tá thiên công, trực tương tân khổ thí tài hoa, cơ cơ phụ bát thập niên tiền thư kiếm trái .

Kỳ đích nhân vật, khoái đích nhân vật, nghĩ bả văn chương hoàn tạo hóa, hảo hảo khan thiên vạn lý ngoại phong vân trình .

- Khéo là thợ trời, giả dối là thợ trời, đem mùi cay đắng thử người tài hoa, một suýt nữa thì ông vỗ mất nợ thơ kiếm đã 80 năm .

- Ông là người rất lạ, lại là người rất thú, nay đưa văn chương trả nợ đời, ta xem hội phong vân nghìn muôn dặm của ông rồi ra sao .

Đã ngoài tám mươi mà còn cố thi lấy đỗ, đỗ rồi để làm gì ?

Đem cái tuổi tráng niên qui vào một chuyện thi đỗ, tuy có tỏ là kiên nhẫn phi thường đấy, nhưng không nghĩ rằng sự nghiệp kẻ nam nhi há chỉ ở trong sự thi đỗ . Giá đem cái kiên nhần ấy dùng làm việc cho đời, có phải hữu ích hơn không .

Ông đồ là truyện lạ, đến tuổi thọ lại càng thêm lạ . Năm giáp tý (1924: Khải Định 9) gặp lễ tứ tuần đại khánh, các quan tỉnh Nghệ làm sớ tâu về triều đình, ông được bàn hàm Hàm Lâm Viện Thị Độc . Năm ấy đã 107 tuổi, qua năm sau thì mất .

Sự nghiệp của ông sau khi đỗ, tóm lại chỉ có bấy nhiêu ...

Sunday, October 25, 2009

VŨ TUÂN

Người làng Lạc Tràng, tỉnh Hà Nam, đỗ cử nhân trường Hà Nội, vào thi hội đỗ phó bảng, làm quan dưới triều Tự Đức đến chức ngự sử, nên về sau thường gọi là cụ ngự Lạc Tràng. Khi vào thi hội, các sĩ tử (đủ mặt cử nhân các trường Trung, Nam, Bắc ) họp lại thử đoán xem đầu bài sẽ ra về vấn đề gì. Vũ nói:
- Theo ngu ý, năm nay quân Pháp, ngoài sự khiêu khích ra, còn xây thành lũy ở khắp nơi, và đặt binh trại rải rác gần kinh thành, có ý nhòm ngó. Tôi chắc kỳ văn sách khoa này thế nào đức Kim thượng cũng hỏi về công thủ chi sách ( kế sách đánh hay hoà ), anh em nghĩ sao?
Cử toạ vỗ tay tán đồng, rồi bàn nhau nếu đầu bài đúng như thế sẽ nhất tề luận theo thế công, nhất quyết xin chủ trương đánh, để tỏ lòng bất khuất của sĩ phu.
Khi vào trường thi, quả như lời họ Vũ đoán, kỳ văn sách ra đề về đoạn kim ( văn sách hỏi về nghĩa kinh, truyện xưa là đoạn cổ. Hỏi về thời sự là đoạn kim văn ): quân xâm lăng hiện nay càng ngày càng thêm gây hấn, đồn lũy khắp dân gian, vậy nên đánh hay nên hoà?
Sĩ tử thấy đầu đề đều khâm phục Vũ và cùng làm bài xin triều đình khởi thế công.
Trong quyển văn của Vũ có câu:

“ Triều đình ủng bách vãn chi tinh binh, kiến nghĩa bất vi vô dũng dã ”.
- Triều đình hiện có sẵn trăm vạn quân lính tinh nhuệ, theo việc nghĩa thì nên đánh quân xâm lăng, thế mà không đánh thì thật là không dũng cảm chút nào.

Vua Tự Đức phê vào bên câu này:

Kim nhật thỉnh chiến, minh nhật thỉnh chiến, chiến nhi bất thắng, tương trí trẫm ư hà địa?
- Hôm nay xin đánh, ngày mai xin đánh, nếu đánh mà thua, thì rồi đặt trẫm ở nơi nào?

Vua không muốn nói ra sự thực: triều đình đâu có trăm vạn tinh binh, mà cứ muốn đánh.
Văn trường không trúng ý khảo quan, nên họ Vũ chỉ đỗ phó bảng.
Trong bọn có cử nhân họ Dương, bội ước với anh em: khi họp bàn thì vâng vâng, dạ dạ: xin đánh; đến khi vào trường lại viết trái lại: xin hoà. Trúng ý quan trường, nên Dương được đỗ tiến sĩ.
Dẫu sao, Vũ vẫn là người chiến thắng về sĩ khí, danh dự còn hơn đỗ tiến sĩ nhiều. Hết thảy sĩ tử Trung, Nam, Bắc hợp lại khen ngợi ông nhiệt liệt, rồi cùng nghĩ đôi câu đối mừng:

Minh đình sách vấn kiêm tam đối.
Giáp đệ thâu nhân chỉ nhất hoà.
- Triều đình hỏi kế sách thì ông đối đáp được mọi điều.
- Thế mà giáp đệ chỉ đỗ phó bảng, thua người khác chỉ tại một chữ hoà.

Sĩ tử còn công phẫn tiến sĩ họ Dương, bàn nhau khi nào anh này vinh quy, sẽ họp lại đón đường đánh cho một trận.
Họ Dương mau được người báo cho biết trước nên sau khi lãnh mũ áo, cờ biển, phải cuốn ngay lại bỏ vào bồ, rồi đêm khuya trốn đi không kén không trống.
Vũ làm quan đến chức ngự sử. Tính người quả cảm, cương trực, các quan triều thần đều kính phục nể vì.
Bấy giờ vua Tự Đức còn thân mẫu là bà Từ Dụ Thái hậu. Nhà vua rất có hiếu, thường quanh quẩn bên màn, sớm hôm hầu hạ, nên việc triều chính có phần trễ nãi. Bên ngoài, quân Pháp thế mạnh như vũ bão, chỉ lăm le thôn tính, tình thế nước nhà như trứng để đầu đẳng. Có nhiều việc quan trọng khẩn cấp, ngự sử họ Vũ xin vào chầu mà mấy lần không được, sau phải dâng sớ trình bày, trong sớ có câu:

….yến tước xử đường, mẫu tử tương hộ, hú hú nhiên kỳ tương lạc, tự dĩ vi an….
Ý nói: nhà cháy đến nơi, mà mẹ con chim én, chim sẻ ở góc đầu nhà vẫn cùng mớm nhau, ra chiều vui vẻ, tự cho là yên ổn lắm.


Vua xem sớ giận quá phê vào bên này bốn chữ “ Tiến sĩ bất đệ” . Có ý mỉa họ Vũ: tiến sĩ cũng không đỗ được, còn làm nên trò trống gì mà hay chỉ trích.

Khi từ giã triều đình, ông cho khắc bốn chữ: Tiến sĩ bất đệ vào biển sơn son thiếp vàng, treo trên chỗ ngồi, để tỏ ý: ở lang miếu hay ở chốn giang hồ, lúc nào cũng để bụng đến quân quốc.
Mãi tới khi tuổi già, về thiết trường dạy học ở nhà một người bạn họ Lê tại làng Kim Lũ, huyện Thanh Liêm cùng tỉnh, ông vẫn để bốn chữ ấy phía trên chỗ ngồi. Để thường ngày chiêm ngưỡng và ngẫm nghĩ về sự đắn đo của nhà vua, mà thời cục đã giành lấy phần trả lời cay đắng cho vua, chua chát cho ông, lại khốn khổ cho cả dân tộc.

VŨ PHẠM HÀM (Thám Hàm)

Người làng Đôn Thư, tỉnh Hà Đông, Bắc Việt, sinh năm 1863 .

Vốn dòng nho gia, tư chất thông minh vượt bực, chí khí cũng khác người .

Thủa nhỏ, ông có bài vịnh "Con cua" để tỏ chí mình:
Linh đài nhất điểm tự phân minh
Thùy bả vô tràng mạn phẩm bình
Thảo dã thử thân nguyên hữu dụng
Giang sơn đáo xứ tẫn hoành hành

Huyền hoàng mãn phúc, văn tâm nhuận
Qua giáp đương đầu: võ lược tinh
Thiên hạ chính đương cơ khát vọng
Quân như bất xuất, thục điều canh ?

- Một điểm ở linh đài (tâm) rất rõ rang
- Vậy mà người ta cứ bảo là cua không có ruột
- Tuy ở chốn thảo dã, nhưng thân hữu dụng
- Giang sơn đến đâu cũng hoành hành (đi ngang)
- Trong bụng có sắc đen và sắc vàng, là sẵn có văn chương
- Đầu có gươm, mình có áo giáp là giỏi võ lược
- Thiên hạ đương mong mỏi, ví như đói mong ăn, khát mong uống
- Nếu cứ ở yên mà không chịu ra, lấy gì giúp việc nấu canh ?

Bốn chữ "Quân như bất xuất" lấy điển Tạ An đời Tần, có chữ "Bất xuất như thương sinh hà" (nếu không ra, thì dân biết trông cậy vào ai). "Thục điều canh" lấy điển Phó Duyệt: "Điều canh dụng nhữ tác diêm mai" ý nói vua tôi hợp nhau như người nấu canh vừa mắm vừa muối .

Bản dịch Nhân Phủ:
Khuông thiêng sẵn có đủ phân minh
"Không ruột" đời sao dám phẩm bình!
Cỏ nội, thân này còn hữu dụng
Giang sơn đâu cũng vẫn hoành hành
Gấm hoa đầy bụng: văn tâm đẹp
Qua giáp đương đầu: võ nghệ tinh
Thiên hạ chính đang khoa khát đấy
Vắng anh, ai kẻ đứng điều canh ?

Năm 21 tuổi đỗ thủ khoa (giáp thân, đời Kiến Phúc, 1884).

Đến khoa thi hội, năm nhâm thìn, Thành Thái 4, 1892, đỗ hội nguyên, vào đình đỗ thám hoa, nên gọi là tam nguyên Thám Hoa, gọi tắt là "ông Thám".

Triều Nguyễn, Bắc kỳ có ba tam nguyên:
Tam Nguyên Vị Xuyên Trần Bích san, Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến, và ông .

Nhưng hai ông trên đỗ nhị giáp, riêng ông nhất giáp: nước ta từ trước, đỗ tam nguyên nhất giáp duy chỉ có ông và đời Lê, bảng nhỡn Lê Quý Đôn nữa mà thôi .

Ông có trí nhớ ít người bì kịp . Khoa hội năm nhâm thìn, đầu bài ra 24 tiên nho, ông nhớ được đủ tên . Lúc đỗ, Đồng Văn Nhật Báo đã đăng:
Vũ quân kỳ khôi tinh giáng thế dư! (Ông Vũ phải chăng là sao giáng thế ?)

Bấy giờ, ở Thanh Hóa có ông Triệu văn hay chữ tốt, nhưng lạo đảo trường ốc, thi đến năm 64 tuổi mà vẫn không đỗ . Tuổi càng cao, bạn đồng hành càng vắng, người học lớp sau thì ông lại cho tài kém cả, nên thường than thở một cách tự phụ: "Không biết còn nói chuyện văn chương với ai được nữa bây giờ!"

Khi nghe tiếng Vũ Phạm Hàm vừa đỗ tam nguyên Thám Hoa; ông đã 72 tuổi . Bụng nghĩ không biết anh này học lực thế nào mà đỗ cao đến thế, bèn quyết định ra Đôn Thư để thử tài .

Hôm ấy nhằm ngày 26 tháng Chạp năm Nhâm Thìn 1982, ông chặt mấy buồn cao tốt ở vườn, lững thững một mình gánh đi .

Sáng 30 tới làng Đôn Thư, hỏi thăm đến nhà ông Thám, thì gặp lúc trong nhà đương tấp nập chuẩn bị ăn tết . Ông để cau ngoài sân, bó gối ngồi trên cái đòn gánh, người nhà không ai để ý đến .

Mãi quá trưa, bà Thám ở trong nhà ra, trông thấy mới hỏi:
- Ông lão ở đâu đến thế kia ?
- Thưa, tết đến nơi cần tiền tiêu, lão đưa hai buồng cau đi bán .

Bà Thám đến xem cau hỏi giá . Ông Thưa:
- Bà lớn muốn trả bằng nào cũng được .

Trong khi bà Thám mãi chọn cau, ông lò dò lên nhà khách, vờ xem hoành phi câu đối, nhác thấy ông Thám đang tưới các chậu lan ở trong sân nhà ngang, ông bèn đứng dậy gật gù ngâm nga, đáng tiếng .

- Ông lão cũng biết chữ đấy à ?
- Bẩm lão cũng lõm bọ

Rồi ông Triệu hết sức tán dương, những là ông Thám học rộng đỗ cao, nhà cửa sang trọng ...

Ông Thám rất đẹp ý . Chợt trông thấy bàn cờ sơn son treo trên vách, ông Triệu giả bộ ngớ ngẩn:
- Thế quan lớn cũng biết đánh cờ kia à ?

Ông Thám tức lộn ruột, nhưng cố nhịn nói:
- Lão có biết đánh khổng

Ông ung dung thưa:
- Cái gì chứ cờ thì xin thú thực là cao tuyệt . Nếu hôm nay quan lớn thư thả, lão xin hầu mấy ván .

Ông Thám không trả lời, vẫy ông vào trong, rồi sai người nhà lấy bàn cờ xuống .

Ông Thám ngất ngưởng ngồi trên sập, dựa lưng vào gối xếp, đưa tay bầy một bên cờ, còn một bên, ông Triệu đứng dưới lom khom bầy . Xong, ông Thám giơ tay toan đi trước, ông Triệu vội chặn lại nói:
- Lão quê mùa chỉ được nghe danh quan lớn, nay ngài lại quá yêu cho hầu cờ, thật lấy làm hân hạnh . Nhưng xin phép quan lớn, xưa nay những bậc tao nhân đánh cờ bao giờ cũng có thưởng phạt, ai thua ba ván phải phạt uống ba chén rượu đầy . Phạt rượu như thế là thường, lão muốn khác hơn kia ạ .

Ông Thám hỏi:
- Lão muốn thế nào ?
- Ý lão vừa đánh cờ vừa làm thơ, nếu không làm xong thơ, phạt uống 3 chén rượu .

Ông Thám nói:
- Lão đã muốn thế, thì xong một ván cờ, mỗi người xong một bài thơ, ai chưa xong, sẽ phải phạt .

Ông Triệu tủm tỉm cười:
- Xong một ván cờ, mới xong một bài thơ, thì ai chả làm được! Lão muốn cứ đi một nước cờ, phải ngâm xong một bài thơ, như thế thưởng phạt mới xứng đáng .

Ông Thám nghe nói, lạnh toát cả người, trong bụng phân vân, tự hỏi hay là tiên đến thử tài mình đây chăng ? Liếc mắt nhìn lại, thấy tuy ăn mặc quê mùa, nhưng cốt cách thanh tú, mới hối là trót vô lễ với bậc già cả: mình ngồi trên sập, mà để người đứng dưới đất . Ông vội gọi người nhà đưa ghế mời ngồi, và bưng nước trà . Nhưng ông Triệu sua tay, ra ý không cần, và gặng lại:
- Ngu ý như vậy, tôn ý thế nào ?

Ông Thám tuy đã hàn tâm, nhưng nghĩ tiếng tăm Tam Nguyên Thám Hoa lừng lẫy, không lẽ lại chịu một ông lão nhà quê về việc văn chương, bèn gượng lại trả lời:
- Xin tuân .

Ông Triệu giơ tay mời ông Thám đi nước đầu, ông Thám ôn tồn nói:
- Tiền khách hậu chủ, xin mời lão đi trước .

Ông Triệu kiêu hãnh không từ chối .

Ông Thám mừng thầm bước khó khăn đã nhường được rồi, và đợi xem thi tài của đối thủ ra sao .

Ông Triệu vừa để tay lên con pháo, vừa cất giọng ngâm:
Chi giao tình khởi tại văn chương
Nhất kiến chi như nhập lý hương
Tức vũ trụ trung giai phận sự
Ư thiên địa nội hữu cương thường ...

Bài thơ có bốn chữ đầu: chi, nhất, tức, ư là những chữ thường dùng để đệm, nay cố ý lập dị, đưa lên đầu câu . Trong thơ đại ý nói ông Thám đỗ cao thì mặc ông, nhưng cương thường để đâu, sao không biết trọng người già cả ?

Ông Thám nghe ngâm dứt câu, rất đỗi kinh dị, nhân thấy ông già nói giọng miền Thanh Hoá, chợt nghĩ đến tiếng đồn "Nghệ Lương Hành, Thanh Triệu Bích" (ở Nghệ có ông Lương ông Hành, ở Thanh có ông Triệu ông Bích) phỏng đóan đây là một trong hai văn nhân danh tiếng đất Thanh Hoá, vội nhẩy xuống, chắp tay nói:
- Tôi hỏi khí không phải, cụ có phải cụ Triệu ở Thanh không ?

Ông Triệu đáp ngay:
- Chính lão .

Ông Thám liền mời ông lên sập và nói:
- Thưa bác, cháu tuy đỗ đạt, nhưng đỗ với người khác, chứ khi nào dám đỗ với bác; sao bác hạ cố đến chơi, không bảo thực cháu, lại còn thử thách làm gì thế!

Rồi gọi bà Thám lên chào, và bắt người nhà làm cơm, giữ ông Triệu ở chơi đến mồng 10 tết mới tiễn ra về .

......