Người làng Phúc Thành, huyện An Ninh, nay là làng Phúc Am, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, Bắc Việt.
Tính rất cương nghị, học lại uyên thâm; nguyên là môn khách chủa Hưng Đạo Vương . Đời Trần Anh Tôn (1293-1344), được bổ hàn lâm học sĩ; trải 4 đời vua, Anh Tôn, Minh Tôn, Hiến Tôn và Dụ Tôn, làm quan đến chức tham tri, chính sự, tạ thế năm Giáp Ngọ 1354.
Trương Hán Siêu là tác giả bài phú sông Bạch Đằng, bài ký tháp Linh Tế, lại cùng Nguyễn Trung Ngạn soạn sách "Hoàn triều đại điền".
Có tư tưởng, phóng khoáng, ông thường hay bài xích những sự lợi dụng đạo Phật, đạo Lão bày ra tệ tục dị đoan huyễn hoặc quần chúng . Sau cáo quan về ẩn ở núi Dục Thúy .
Núi này ở cửa bắc tỉnh lỵ Ninh Bình, đứng ngày bờ sông coi hình như con chim trả đang tắm, nên Trương Hán Siêu mệnh danh cho là "Dục Thủy".
Dân gian quen gọi một tên nôm na nhưng hình dung hơn: núi Non Nước .
Ngày xưa có thành bằng gạch xây vòng quanh tỉnh, đến đoạn gặp núi làm thành, nên vua Thiệu Trị cho tên là Hộ Thành Sơn .
Dưới gầm núi về mắt sông, có hang, trên núi co đình, lại có khoảng đất trồng hoa kim cúc .
Trên đỉnh núi có tháp Linh Tế, trong tháp có bia khắc bài ký, sườn núi khắc bài thơ, hai bài cùng của Trương . Bài thơ như sau:
Sơn sắc chính y y - Sắc núi xanh rờn rờn
Du nhân hồ bất quy - Người đi chơi sao chẳng về ?
Trung lưu quang tháp anh - Nước sông trong, sáng lên bóng cây tháp
Thượng giới khải nham phi - Từng trên núi có một của hang
Trần thế như kim thị - Việc đời như nay là phải
Phù sinh ngộ tạc phi - Thì kiếp phù sinh trước đây mình tỉnh ngộ ra là không phải
Ngũ hồ thiên địa khoát - Cảnh Ngũ hồ trời đất rộng (Phạm Lãi nước Việt, khi thôi làm quan ra chơi Ngũ Hồ)
Hảo phóng cựu ngư ky - Nên tìm cái bàn câu cá ngày trước ra mà ngồi
Bản dịch của Nhân Phủ:
Núi một màu xanh ngắt
Du tử về chăng đây ?
Giữa dòng soi bóng tháp
Trên cõi mở rèm mây
Trần thế như: nay phải
Phù sinh nhận: trước sai
Năm hồ trời đất rộng
Tìm bàn cũ câu chơi!
Từ khi Trương Hán Siêu mất đi, các vị đế vương cùng tao nhân mặc khách thường lên núi du ngoạn đề vịnh, thơ còn khắc lại rất nhiều .
Bài thơ của vua Thiệu Trị :
Tẫn vi xuyên cốc, mẫu khâu lăng - Trong vũ trụ, sông hang thuộc về giống cái; núi gò thuộc về giống đực (chữa ở sách Khổng Tử gia ngữ)
Cô tiếu lâm viên, hám luyện trừng - Núi đứng một mình ở bên thành, dòm xuống dòng sông trong (thừa ý câu trên, núi về giống đực, sông về giống cái)
Nam quốc phiên ly, bằng hổ cứ - Phên giậu nước Nam, nhờ núi trông như thể hổ cứ
Bắc môn tỏa thược tráng long hưng - Núi là then khóa cửa bắc tỉnh thành, giúp vận long hưng cho nước nhà
Không giao vãng đại cung đề thưởng - Núi này từ xưa, vẫn để cho những người làm thơ để thưởng
Chuẩn nghĩ biên phương tráng thế tăng - Nay ta cho tên Hộ Thành để mạnh thân thế ngoài biên
Danh thắng phất sùng, tu địa lợi - Cảnh danh thắng này, chẳng những địa lợi mà thôi
Vĩnh ninh cương ngữ bảo minh trừng - Lại còn giữ yên bờ cõi, và là điềm tốt cho tương lai
Bản dịch của Nhân Phủ:
Khe hang gò đống hiểm muôn trùng
Núi vút từng mây, nước suốt trong
Phên giậu nước Nam nhờ thế cọp
Khoá then của Bắc dấy oai rồng
Những từ thủa trước nơi đề thưởng
Ai rõ ngoài biên thế vẫy vùng
Danh thắng đã đành, còn địa lợi
Vững vàng bờ cõi, rạng non sông!
Sau này, non sông gặp nạn, núi không còn là then khóa của quốc gia như lời Thiệu Trị nữa, Nguyễn Thượng Hiền, lúc đó làm đốc học Ninh Bình có họa lại bài thơ Trương Hán Siêu như sau:
Thanh tuyền bạch thạch lưỡng tương y - Suối nước trong và đá trắng ở núi, vẫn nương tựa nhau
Nhất đại du nhân, khứ bất quy - Người đi chơi đời xưa (tức Hán Siêu) mãi không về
Hoàng cúc chí kim hương tiễn lộ - Cụm cúc vàng đến nay, vẫn còn hương thơm, ở đường xe vua đi
Thanh sơn tự tích ẩn thiền phi - Núi xanh từ xưa vốn đã có chùa
Sinh ca thành quách, nhân như mộng - Hát múa và thành quách đời xưa như giấc mộng
Tỏa thược quan hà sự dĩ phi - Núi này ngày trước là then khóa chốn quan hà, nhưng nay chuyện ấy không còn nữa (vì người Pháp đã chiếm thành)
Độn tẩu phương tung, hà xứ mịch? - Dấu chân cụ Trương nay tìm đâu thấy ?
Thương giang minh nguyệt, mãn hàn ki - Chỉ thấy bóng trăng trên sông soi vào bàn đá câu cá
Bản dịch Nhân Phủ:
Đá trắng, khe trong, cảnh vẫn bền
Khách du năm cũ khuất non tiên
Cúc vàng nay vẽ đường hương liễn
Núi biếc xưa phong cửa ẩn thiền
Thành quách người còn say giấc mộng
Quan hà khóa đã lỏng tay then
Dấu thơm dật sĩ tìm đâu thấy
Vằng vặc dòng sông, bóng rọi thuyền ...