Sunday, February 13, 2011

Bà Huyện Thanh Quan

Tên thật là : Nguyễn Thị Hinh
Nữ thi sĩ, thường được gọi theo chức vụ của chồng là Bà Huyện Thanh Quan, không rõ năm sinh, năm mất.
Người ta chỉ biết bà là ái nữ của một vị danh Nho, sinh quán tại làng Nghi Tàm, huyện Thọ Xương (nay là Hoàn Long, tỉnh Hà Đông).  Bà lập gia đình với ông Lưu Nghị, tự là Lưu Nguyên Uẩn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ cử nhân khoa Tân Tỵ, năm Minh Mạng thứ hai, được bổ làm tri huyện Thanh Quan. Do đó nữ sĩ được gọi là Bà huyện Thanh Quan hay Bà Thanh Quan.


Chồng bà mất sớm, năm ông 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con.
Đời vua Minh Mạng bà được mời vào làm Cung Trung giáo tập, dạy các cung phi và công chúa.
Thơ bà điêu luyện, hàm súc, hiện còn một ít bài được truyền tụng và được xem là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam. Với các bài Đèo Ngang, Thăng Long thành hoài cổ, Chiều hôm nhớ nhà.

   Do là nữ nhân nên các tác phẩm của bà hiện nay chỉ còn 7 tác phẩm . Đa số bị thất truyền . Vua Tự Đức cũng rất thích những tác phẩm của bà .

       Đền Trấn Vũ

Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng
Một vũng tang thương, nước lộn trời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây, chín rõ mười.


         Cảnh chiều hôm   
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn ?


        Cảnh thu
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.



        Chùa Trấn Bắc  
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Ai đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy toà sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu


      Chiều hôm nhớ nhà
Vàng toả non Tây bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
Còi mục gác trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ chung tình có thấy là ?


    Qua đèo Ngang
  
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá ,đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.

 
        Thăng Long Hoài cổ
  
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

No comments:

Post a Comment